Thực vật phù du là một thành phần quan trọng trong hệ sinh thái ao nuôi trồng thủy sản

Quản lý đúng cách hết sức quan trọng để nuôi thành công Tảo lam thường sẽ nổi trên mặt ao, hình thành váng hấp thụ nhiệt, có thể làm tăng nhiệt độ nước. Các ao thường có thực vật phù du phong phú. Những sinh vật này đóng một vai trò quan trọng trong hệ […]

Quản lý đúng cách hết sức quan trọng để nuôi thành công

Blue-green_algae1-337x256

Tảo lam thường sẽ nổi trên mặt ao, hình thành váng hấp thụ nhiệt, có thể làm tăng nhiệt độ nước.

Các ao thường có thực vật phù du phong phú. Những sinh vật này đóng một vai trò quan trọng trong hệ sinh thái ao và ảnh hưởng đến chất lượng nước. Mặc dù thực vật phù du thường là có lợi, tuy nhiên ở một số điều kiện, chúng có thể thực sự là vấn đề trong nuôi tôm và cá.

Tảo thuộc nhóm thực vật phù du có hàng ngàn loài được phân bố chủ yếu trong số các ngành Pyrrophyta (tảo giáp), Euglenophyta (tảo mắt), Chlorophyta (tảo lục), Heterokontophyta (tảo roi lệch) và Cyanophyta (tảo lam). Pyrrophyta chủ yếu là tảo biển và bao gồm các loài tảo hai roi. Euglenophyta – giống như Pyrrophyta – là các sinh trùng roi di động, tuy nhiên nhiều loài là các sinh vật nước ngọt như loài Euglena. Chlorophyta hầu hết là các sinh vật nước ngọt và ngành này bao gồm các loài tảo lục thông thường. Heterokontophyta có nhiều loài nước ngọt và nước biển, bao gồm các loài tảo vàng-lục, vàng và nâu cũng như tảo cát. Cyanophyta là tế bào nhân sơ (nhân tế bào không được kết ở trong màng) giống như vi khuẩn và nhiều cơ quan chức năng coi chúng là vi khuẩn (vi khuẩn lam). Nhưng hầu hết người nuôi thủy sản cũng như tôi quy cho Cyanophyta là tảo lam. Có nhiều loài tảo lam nước ngọt, nhưng một số ít là nước biển.

Mầm thực vật phù du đúng là ở khắp mọi nơi, trong đất, nước và không khí. Bất kỳ vùng nước nào đều được gieo mầm thực vật phù du một cách tự nhiên cũng giống như là vi khuẩn. Các ao không cần phải cấy thực vật phù du. Thực vật phù du tăng trưởng cần một số nhu cầu sau: nước, ánh sáng, nhiệt độ thuận lợi và các chất dinh dưỡng vô cơ. Bởi có sự đa dạng của các loài thực vật phù du như thế, nên có những loài có thể phát triển ở hầu hết các loại nước. Tuy nhiên, các loài khác nhau có những yêu cầu về môi trường khác nhau và các loài chiếm ưu thế sẽ khác nhau tùy theo các vùng nước.

Quản lý trong các ao nuôi trồng thủy sản

Các ao nuôi trồng thủy sản thường có 50 loài thực vật phù du hoặc nhiều hơn ở bất kỳ thời điểm nào, nhưng chỉ có một vài loài – thường ít hơn 4 hoặc 5 loài sẽ chiếm phần lớn cộng đồng thực vật phù du. Hơn nữa, cộng đồng thực vật phù du trong các vùng nước thường trải qua chuỗi thay thế liên tiếp nhau nhanh chóng và thành phần loài trong các cộng đồng thực vật phù du thường xuyên thay đổi qua từng giai đoạn khoảng vài tuần.

Sự phong phú của thực vật phù du thường được kiểm soát bởi hàm lượng các chất dinh dưỡng – đặc biệt là các chất dinh dưỡng có nitơ và phosphat vô cơ. Các vùng nước có hàm lượng nitơ và phosphat vô cơ cao thường có một lượng lớn thực vật phù du. Những sinh vật này góp phần tạo màu cho nước – tình trạng này được gọi là thực vật phù du nở hoa. Tất nhiên, một số vùng nước bị đục do hàm lượng lớn các hạt đất sét lơ lửng hoặc các chất mùn và không có đủ ánh sáng cho sự tăng trưởng đáng kể của thực vật phù du. Nước có tính axit cao cũng có thể không làm tảo phát triển nở hoa dày đặc được ngay cả khi có rất nhiều chất dinh dưỡng.

Các ao nuôi trồng thủy sản là môi trường sống lý tưởng cho thực vật phù du: Những hệ thống này được quản lý để tránh độ đục quá mức do các hạt đất sét lơ lửng. Nếu các ao có tính axit thì sẽ được bón vôi; các chất dinh dưỡng đều dồi dào vì có bổ sung phân bón và thức ăn. Thực vật phù du rất cần thiết trong ao vì nhiều lý do. Chúng là nền tảng của chuỗi thức ăn tự nhiên để đạt đến đỉnh điểm trong sinh khối của các loài nuôi. Ngay cả trong các ao nuôi có cho thức ăn, thực vật phù du thường có vai trò quan trọng bởi vì các sinh vật làm thức ăn tự nhiên bổ sung cho thức ăn công nghiệp – điều này đặc biệt quan trọng đối với động vật giáp xác hậu ấu trùng nhỏ và cá giống ngay sau khi thả giống.

Green_phyto_in_shrimp_pond1-337x256

Thực vật phù du cung cấp một nguồn oxy hòa tan quan trọng. Vào ban ngày, các loài thực vật này sản sinh ra oxy nhờ quá trình quang hợp với tốc độ nhanh hơn nhiều so với oxy có thể khuếch tán từ không khí vào nước ao. Thực vật phù du nhanh chóng khử nitơ amoniac từ nước làm giảm hàm lượng của chất độc hại tiềm tàng này. Cuối cùng, độ đục do thực vật phù du tạo ra làm hạn chế sự thâm nhập ánh sáng xuống đáy ao và thực vật phù du nở hoa là một biện pháp kiểm soát tốt cho thực vật bậc cao thủy sinh sinh trưởng dưới bề mặt nước.

Các tác động xấu tiềm tàng

Mặc dù thực vật phù du có lợi cho các ao nuôi trồng thủy sản, nhưng sự nở hoa của chúng có thể trở nên quá mức và gây ra những tác động tiêu cực. Vào suốt thời gian ban đêm trong ao có thực vật phù du nở hoa dày đặc, sự hô hấp của thực vật phù du và các sinh vật khác có thể khiến cho nồng độ oxy hòa tan quá thấp đến mức có thể gây stress hoặc tiêu diệt các loài nuôi. Trong các ao không có sục khí, thực vật phù du nở hoa làm giảm tầm nhìn dưới nước đến mức thấp hơn 20-30 cm – được đo bằng đĩa Secchi – có khả năng gây ra nồng độ oxy hòa tan cực thấp vào ban đêm.

Ban ngày, tốc độ quang hợp có thể làm cạn kiệt cacbon dioxide tự do trong nước dẫn đến pH quá cao. Ngoài ra, mức độ oxy hòa tan quá bão hòa cao có thể xảy ra khi sự quang hợp nhanh. Sự siêu bão hòa oxy thường không gây ra tổn thương do bọt khí ở động vật thủy sản trong ao, vì động vật nuôi thường có thể di chuyển xuống tầng nước sâu hơn đến nơi mà mức bão hòa oxy thấp hơn. Tuy nhiên, trong các ao sử dụng để cung cấp nước cho các trại giống, sự bão hòa khí trong nguồn nước cấp có thể gây tác dụng phụ trên trứng hoặc cá giống.

Mất hương vị ở cá và tôm

Sự phong phú của một số loài thực vật phù du nhất định trong ao có thể có các tác dụng phụ khác – đặc biệt là sản sinh các hợp chất có mùi và độc hại. Một số loài thực vật phù du – chủ yếu như tảo lam – sản sinh các hợp chất có mùi như geosmin và methyl-isoborneol (MIB) mà tôm/cá có thể bị hấp thụ phải và dẫn đến mùi hôi và vị dở thường gọi là mất hương vị. Cá bị mất hương vị thường bị các nhà máy chế biến từ chối.

Geosmin có mùi của đất liên tưởng đến mùi đất ẩm vừa mới cày hoặc đất hầm ẩm ướt. Hợp chất này được sản sinh phổ biến nhất từ loài Anabaena Aphanizomenon thường rất phong phú trong các ao nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Mùi của MIB có mùi mốc và dược liệu – hơi giống như mùi long não. Nguồn thông thường gây mùi MIB dường như là từ loài Planktothrix (trước đây gọi là Oscillatoria).

Không có cách nào để ngăn ngừa hiệu quả sự phát triển của thực vật phù du trong các ao nuôi trồng thủy sản gây ra độc tố tảo. Các nhà quản lý đôi khi cố gắng để diệt tảo độc bằng cách sử dụng đồng sunfat hoặc chất diệt tảo khác với kết quả thành công khác nhau.

Một cách hiệu quả để tránh vấn đề mất hương vị là thỉnh thoảng làm các xét nghiệm hương vị và lên lịch các vụ thu hoạch trùng vào những lúc các loài nuôi có một hương vị chấp nhận được. Một số nhà chế biến đã báo cáo về thành công trong việc phòng ngừa vấn đề mất hương vị bằng cách thả các loài như cá chép Trung Quốc và cá rô phi cùng với các loài nuôi chính; các loài cá ăn sinh vật phù du sẽ ăn tảo lam và giảm thiểu nguy cơ vấn đề mất hương vị. Tuy nhiên, đôi khi cần thiết phải xử lý ao bằng đồng sunfat để diệt tảo gây mất hương vị. Mức xử lý thông thường bằng đồng sunfat tính bằng miligam trên lít là 0,01 lần tổng nồng độ kiềm.

Tảo độc

Tảo độc có rất nhiều loài, có thể phổ biến ở các vịnh và cửa sông phú dưỡng là nơi hay nuôi động vật có vỏ và nuôi cá lồng. Độc tố tảo do các loài tảo lam, tảo hai roi và tảo cát trong nước biển ven bờ sinh ra thường không độc đối với động vật thân mềm. Đúng hơn là chúng tích lũy trong mô của những sinh vật này và đặt ra một mối đe dọa sức khỏe đến con người khi ăn phải chúng. Một số loài động vật có vỏ gây ngộ độc, một dạng độc tố gây liệt cơ do động vật có vỏ có thể dẫn đến tử vong ở người. Tảo độc ở ven biển cũng đã được báo cáo gây chết cho cá nuôi lồng.

Tảo độc ít phổ biến ở nước ngọt hơn so với nước miền ven biển. Tuy nhiên, có trường hợp đã xác nhận là tảo độc trong các ao nuôi trồng thủy sản nước ngọt gây ra từ một số loài tảo nhất định của giống tảo lam (Microcystis, AnabaenaPlanktothrix), Eugleanoids (Euglena) và Haptophytes (Chrysochromulina).

Các vùng nước ở đất liền có độ mặn thấp đang ngày càng được sử dụng nhiều cho nuôi trồng thủy sản. Một số loài tảo độc phát triển tốt trong nước có độ mặn thấp là mối đe dọa trong các hệ thống nuôi trồng này – đặc biệt là Prymnesium parvum (tảo vàng).

Không có cách nào để ngăn ngừa hiệu quả sự phát triển của thực vật phù du trong các ao nuôi trồng thủy sản gây ra độc tố tảo. Các nhà quản lý đôi khi cố gắng diệt tảo độc bằng cách sử dụng đồng sunfat hoặc chất diệt tảo khác đạt kết quả thành công khác nhau. Cũng có những nỗ lực để khử độc tố của tảo bằng cách sử dụng kali permanganate (thuốc tím). Căn cứ vào việc sử dụng thuốc tím cho các mục đích khác, cần khoảng 2 mg/L khi nước tương đối trong và tăng lên thành 6 mg/L khi nước có nồng độ cao chất hữu cơ để oxy hóa các hợp chất này. Tuy nhiên, việc xử lý này nói chung không đảm bảo chắc có hiệu quả.

Các triển vọng

Trong quản lý ao nuôi, những nỗ lực cần phải làm để tránh thực vật phù du nở hoa quá mức bằng cách chỉ bổ sung phân bón hoặc thức ăn khi cần thiết. Tuy nhiên, trong nuôi trồng thủy sản dựa vào thức ăn, các ao thường có tảo phát triển nở hoa dày đặc. Thực vật phù du nở hoa thường trở nên quá mức khi mức cho ăn trên 30 kg/ha mỗi ngày trong các ao không có sục khí. Khi lượng thức ăn nhiều hơn, điều quan trọng là vận hành đủ sục khí cơ học để tránh nồng độ oxy hòa tan thấp vào ban đêm. Nồng độ oxy hòa tan ban đêm thấp rõ ràng là vấn đề nghiêm trọng nhất về chất lượng nước trong ao nuôi trồng thủy sản dựa vào thức ăn.

BioAqua.vn

Nguồn: Tiến sĩ Claude E. Boyd, Trường Thủy sản, Nuôi trồng Thủy sản và Khoa học Thủy sản, Đại học Auburn, AL 36830 USA – http://advocate.gaalliance.org/phytoplankton-a-crucial-component-of-aquaculture-pond-ecosystems/#sthash.NmlvKBgV.dpuf

Bài viết liên quan:

  • Thành phần trong thức ăn nuôi trồng thủy sản giúp xác định khả năng ô nhiễm nướcThành phần trong thức ăn nuôi trồng thủy sản giúp xác định khả năng ô nhiễm nước
  • Quan sát màu nước đánh giá chất lượng dinh dưỡngQuan sát màu nước đánh giá chất lượng dinh dưỡng
  • Công nghệ biofloc có thể phòng ngừa bệnh tômCông nghệ biofloc có thể phòng ngừa bệnh tôm
  • Xác định phạm vi các biến số chất lượng nước hiển thị quá trình phức tạp và thách thứcXác định phạm vi các biến số chất lượng nước hiển thị quá trình phức tạp và thách thức
  • Sử dụng quạt nước trong nuôi tômSử dụng quạt nước trong nuôi tôm
  • Nghiên cứu sử dụng tảo lục Ulva lactuca trong chế độ ăn của tôm thẻ chân trắngNghiên cứu sử dụng tảo lục Ulva lactuca trong chế độ ăn của tôm thẻ chân trắng
  • Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản – Phần 1Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản – Phần 1