Virút hội chứng đốm trắng (WSSV) là tác nhân gây bệnh đốm trắng (WSD) trên tôm cực kỳ nguy hiểm và gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng nhất cho ngành nuôi trồng thủy sản. WSSV lan rộng trong các hệ sinh thái nuôi tôm trên toàn cầu và bệnh truyền theo chiều dọc từ […]
Virút hội chứng đốm trắng (WSSV) là tác nhân gây bệnh đốm trắng (WSD) trên tôm cực kỳ nguy hiểm và gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng nhất cho ngành nuôi trồng thủy sản. WSSV lan rộng trong các hệ sinh thái nuôi tôm trên toàn cầu và bệnh truyền theo chiều dọc từ tôm bố mẹ nhiễm bệnh sang ấu trùng và chiều ngang do sự ăn vào của các sinh vật bị nhiễm bệnh. Trong khi bệnh đốm trắng lan truyền theo chiều dọc đã được ngăn ngừa bằng cách sàng lọc tôm bố mẹ nhiễm bệnh thì sự lan truyền bệnh theo chiều ngang ở các trang trại nuôi tăng trưởng là một thách thức nghiêm trọng.
Hiện nay không sẵn có phương pháp xử lý để ngăn ngừa sự xuất hiện và lây lan bệnh tự do không kiểm soát. Quy trình Thực hành Quản lý Tốt (BMP) đã hỗ trợ giảm nhẹ vấn đề này tới mức cao nhất, bằng cách giảm thiểu các nguy cơ lan truyền qua sinh vật mang mầm bệnh như cua biển, Artemia, trứng luân trùng, động vật thân mềm, sâu giun nhiều tơ, ấu trùng côn trùng và chim biển, vv… Tuy nhiên, những lo ngại về sự lan truyền bệnh đốm trắng (WSD) qua nước và bùn / trầm tích đáy ao ô nhiễm vẫn chưa được giải quyết. Các quy trình thực hành chuẩn bị ao nuôi đã được chứng minh hữu dụng trong việc loại bỏ virút khỏi ao và giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Tư vấn này là kết quả của nghiên cứu được tiến hành tại CIBA và hoàn thiện hơn các thông tin hiện có liên quan đến các cách thức chuẩn bị ao nuôi để phòng ngừa tôm chết do bệnh đốm trắng trong ao nuôi tôm vừa mới thả.
Nghiên cứu được thực hiện tại CIBA đã cho thấy bệnh đốm trắng có thể lan truyền qua trầm tích / bùn đáy ao đã nhiễm đốm trắng WSSV mà chưa được phơi khô kỹ dẫn đến tôm chết hàng loạt. Các ao bị nhiễm đốm trắng WSD có thể để lại lượng lớn virút đốm trắng WSSV trong trầm tích (mức 106 g-1 hạt WSSV) và nước (mức 102 ml-1 hạt WSSV). Mặc dù WSSV không thể sao chép bên ngoài vật chủ và các sinh vật mang mầm bệnh nhưng nó hình như vẫn có khả năng lây nhiễm khá lâu. Nghiên cứu của CIBA về khoảng thời gian tồn tại của virút đốm trắng WSSV trong trầm tích / bùn đáy ao đã phát hiện thấy trong điều kiện ao có thể tháo nước được mô phỏng qua thực nghiệm, virút vẫn có thể tồn tại và lây nhiễm lên đến 19 ngày trong trầm tích dù đã phơi nắng, như đã chứng minh bởi các thí nghiệm lây nhiễm tôm. Trong điều kiện thực địa đã nhận thấy virút WSSV ở trầm tích ao có thể lây nhiễm cho đến 26 ngày sau khi thu hoạch khẩn cấp do bệnh đốm trắng. Trong điều kiện thực nghiệm có mức 103 ml-1 hạt WSSV nhận thấy WSSV đã lây nhiễm tôm ấu niên trong vòng 12 ngày khi không có bất kỳ sinh vật mang mầm bệnh nào. Do đó, việc kiểm tra trầm tích / bùn đáy ao và nước ao lắng để phát hiện virút đốm trắng WSSV bằng phương pháp PCR và nắm được tình trạng có / không có virút đốm trắng trước khi thả giống có thể giúp để quyết định khởi động vụ nuôi mới và nhờ đó ngăn ngừa bệnh đốm trắng trong ao vừa mới thả.
Là một phần của quy trình Thực hành Quản lý Tốt – BMP trong quá trình chuẩn bị ao nuôi tôm, kiểm tra trầm tích / bùn đáy ao (pH và hàm lượng chất hữu cơ), ngâm chiết (đối với trầm tích có tính axit), cày bừa, phơi ao, kiểm soát hệ động vật không mong muốn (ví dụ như cá vây, động vật giáp xác, động vật thân mềm, động vật lưỡng cư, bò sát, vv..) sử dụng các phương pháp vật lý và hóa học, bón vôi, bón phân, vv… đã rất thịnh hành. Mặc dù áp dụng các phương thức này nhưng dịch bệnh đốm trắng WSD vẫn xảy ra trong suốt những ngày đầu thả giống như người nuôi tôm thường xuyên nói gần đây. Bùng phát bệnh đốm trắng như thế có khả năng là do quá trình chuẩn bị ao nuôi không thích đáng, cho nên virút đốm trắng WSSV tiếp tục duy trì sự tồn tại và lây nhiễm.
Nghiên cứu của CIBA đã cho thấy trầm tích / bùn đáy ao phơi khô trong ít nhất ba tuần có thể giúp phòng ngừa bệnh đốm trắng WSD. Nếu các ao đã nhiễm bệnh đốm trắng sau khi thu hoạch được khử trùng thì thời gian phơi khô có thể ngắn hơn một ít. Tuy nhiên, khả năng tồn tại của WSSV trong trầm tích / bùn đáy ao phụ thuộc vào nhiều yếu tố và yếu tố quan trọng nhất là độ ẩm trong đất.
Nghiên cứu được triển khai ở CIBA đã phát hiện thấy virút có thể vẫn còn nhiễm trong trầm tích / bùn đáy có độ ẩm là 1,3 đến 1,5%. Do đó, phải phơi ao khô triệt để và trầm tích / bùn đáy nên được xét nghiệm WSSV bằng phương pháp PCR theo quy trình vận hành tiêu chuẩn (SOP) trước khi bắt đầu vụ nuôi mới. Tương tự xét nghiệm nước trước khi được sử dụng cho nuôi trồng thủy sản cũng sẽ giúp phòng ngừa bệnh đốm trắng. CIBA đã và đang phát triển các phương pháp để cô đặc virút từ nước và xét nghiệm bất kỳ tác nhân gây bệnh / mầm bệnh tôm sử dụng kỹ thuật gọi là lọc tiếp tuyến (TFF). Nước trong ao lắng, sau khi xử lý thích hợp bảo đảm loại bỏ hệ động vật không mong muốn sử dụng các phương pháp vật lý và hóa học thì nên được xét nghiệm WSSV để không nhiễm đốm trắng ở trang trại của mình.
BioAqua dịch
Nguồn: CIBA (Central Institute of Brackishwater Aquaculture) – India
Nguồn hình ảnh: Aquanetviet