AQ1: Hệ thống cho tôm ăn bằng “âm thanh” đối với ao thâm canh và bán thâm canh

Hội thảo Nuôi trồng thủy sản lần thứ X tại Trung Mỹ diễn ra từ ngày 27 – 29 tháng 8 năm 2014 ở Tegucigalpa, Honduras, Shrimp News có cuộc phỏng vấn Régis Bador – người sáng lập đồng quản lý Innov’Aquaculture, một công ty ở New Caledonia chuyên tìm kiếm, chứng nhận và cải […]

Hội thảo Nuôi trồng thủy sản lần thứ X tại Trung Mỹ diễn ra từ ngày 27 – 29 tháng 8 năm 2014 ở Tegucigalpa, Honduras, Shrimp News có cuộc phỏng vấn Régis Bador – người sáng lập đồng quản lý Innov’Aquaculture, một công ty ở New Caledonia chuyên tìm kiếm, chứng nhận và cải tiến sản phẩm phù hợp cho người nuôi tôm.

Trước khi bắt đầu Innov’Aquaculture, Bador  – người làm việc gần ba mươi năm với vai trò như nhà tư vấn quản lý sản xuất giống nông nghiệp, quản lý trang trại và tư vấn nuôi tôm. Trong khoảng thời gian công tác, ông có nhiều cơ hội để thử nghiệm và sử dụng nhiều sản phẩm và công nghệ. Hiện tại ông đại diện cho các công ty chuyên phát minh và sản xuất những sản phẩm dành cho người nuôi tôm. Đích than ông hiểu tường tận từng nhà cung cấp và cũng được thử nghiệm hoặc sử dụng các sản phẩm mà ông đang tiếp thị. Ông chủ động liên hệ với tất cả các nhà cung cấp và có thể giới thiệu sản phẩm phù hợp nhất theo nhu cầu khách hàng của mình. Không phải lúc nào người nuôi tôm cũng có thời gian để tìm hiểu ra những sản phẩm tốt và họ không biết làm thế nào để đánh giá khi mà họ chưa nhìn thấy chúng. Bador nói, “Tôi làm điều đó cho họ!”.

Shrimp News: Trong quá khứ, chúng tôi đã nói rất nhiều về “top” sản phẩm của công ty, AQ1 –  thiết bị cho tôm ăn dựa trên việc giám sát bằng âm thanh và sử dụng âm thanh để kiểm soát, tối ưu hóa qua việc cho ăn tự động. Ông đã thực hiện bất kỳ thay đổi trong hệ thống đó?

AustraliaAQ1PondDiagram

Régis Bador: Vâng, trong hai năm qua, chúng tôi đã điều chỉnh hệ thống để có thể làm việc nhiều hơn, bán thâm canh, ao tôm, đó là một cải tiến thú vị bởi vì trong quá khứ, hầu hết công việc mà AQ1 đã được thực hiện ở châu Á và Australia trên những ao nhỏ và thâm canh. Chúng tôi đã phát hiện ra rằng nếu chúng ta thêm cảm biến (hydrophone)  và cho ăn tự động chỉ tiêu tốn bằng 5% của một ao lớn như bán thâm canh, chúng tôi có được kết quả thuận lợi vì có hệ thống trong các ao sâu nhỏ. Sau khi sử dụng công nghệ AQ1 tại một trang trại bán thâm canh ở New Caledonia trong vòng hai năm, báo cáo từ người nuôi đầu tiên vào AQ1 cho biết, thiết bị có những màn trình diễn tốt nhất kể từ đầu năm trang trại của ông. Những con tôm học được cách ăn nhanh chóng  đến khu vực ăn khi chúng đói. Trong lần thử nghiệm đầu tiên của mình, ông đưa 8 hệ thống đến một ao với diện tích 7 ha, gồm có 2.5 triệu tôm xanh (Penaeus stylirostris). Tốc độ tăng trưởng tốt hơn 30% so với việc cho ăn bằng tay từ 2 – 4 lần/ngày, nhưng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) đã không cải thiện. Trong thử nghiệm lần thứ hai của mình, cùng với tự động thăm dò hàm lượng DO từ AQ1, ông quan sát và thấy rằng nếu nồng độ ôxy ở ngưỡng tối ưu, tôm có khả năng ăn hầu như mọi thời điểm – ngày hay đêm, mặc dù điều đó không diễn ra mỗi ngày. Tất cả thử nghiệm của chúng tôi đã được thực hiện trong những ao thương mại.

Giờ đây, AQ1 đi kèm với một đầu dò oxy và ghi lại nhiệt độ nước và mưa rơi. Nếu nồng độ oxy giảm, bạn có thể thiết lập AQ1 ngừng cho tôm ăn đến khi nồng độ oxy trở lại với một mức độ mà người nuôi thiết lập ở phần mềm.

Tuy nhiên, đây sẽ là tín hiệu không tốt khi nuôi tôm theo lịch trình được thiết lập sẵn vì không phải lúc nào tôm cũng sẵn sàng ăn. Đôi khi, tôm cần ăn vào buổi sáng; thỉnh thoảng lại vào lúc vào 11 giờ trưa. Chỉ sau một ngày mô hình này có thể thay đổi. Có rất nhiều yếu tố như nhiệt độ, oxy, lượng mưa và độ pH, cùng với các yếu tố biến động khác chưa biết đến ảnh hưởng việc nuôi tôm, nhưng những biến động không quan trọng khi bạn sử dụng hệ thống AQ1, bởi vì AQ1 cắt giảm thức ăn khoảng 30 phút, chỉ đợi tôm cần ăn. Hệ thống sẽ phun 100 gram thức ăn nhằm đánh giá mức độ thèm ăn của tôm, sau đó thêm 100 gram để đảm bảo chúng được cho ăn. Nếu tôm sẵn sàng để ăn, hệ thống sẽ bắt đầu với chế độ ăn thường xuyên là 500 gram trong thời gian hai phút mười lăm giây cho đến khi cảm biến cảm thấy tôm không còn ăn. Sau khi một hoặc hai giờ, hệ thống sẽ tắt để kết thúc quá trình ăn của tôm. Sau đó, hệ thống sẽ bắt đầu lại với mẫu 100gram để xác định tôm vẫn muốn ăn. Nếu không có tiếng ồn nhiều, hệ thống sẽ tạm ngưng 30 phút trước khi chạy thử nghiệm khác.

Shrimp News: Thức ăn có rơi vào khay thức ăn?

Régis Bador: Không, nó phân bố theo dạng hình tròn với đường kính khoảng bốn mươi tám feet, diện tích gần 300 mét vuông. Khi bắt đầu thử nghiệm đầu tiên, người dân ở New Caledonia sử dụng thiết bị SCUBA để kiểm tra đáy dưới chế độ ăn tự động, và tất cả cho thấy không có sự tích tụ các chất hữu cơ! Sau khi thu hoạch, ông khẳng định đáy ao hoàn toàn sạch.

Shrimp News: Nơi nào để đặt máng ăn tự động?

Régis Bador: Vị trí của máng ăn tự động là rất quan trọng. Chúng tôi không đặt chúng trong ½ ao nông vì nhiệt độ và các thông số khác và đôi khi ảnh hưởng đến ao như vùng nước ấm hoặc màu nước ở những ao sâu hơn, nhưng để tránh nơi oxy hòa tan có thể bị cạn kiệt, chúng tôi không đặt chúng trong các khu vực sâu nhất của một trong hai vị trí của hồ. Gió và sóng cũng ảnh hưởng đến vị trí ăn và những nơi bùn tích tụ và các khu vực xung quanh, kiểm tra kết cấu nước đều có thể tránh được. Chúng tôi thấy rằng nơi bằng phẳng, khu vực tương đối sạch và sâu để tôm hoạt động tốt nhất bởi vì mục tiêu của chúng tôi là nuôi tôm trong khu vực thoải mái nhất trong 24 giờ để tối đa hóa tăng trưởng và giảm tiêu tốn thức ăn. Phạm vi hoạt động của cảm biến Hydrophone ít nhất là mười lăm mét, tính từ thiết bị sục khí, nhưng nó phụ thuộc vào loại thiết bị sục khí.

Shrimp News: Làm thế nào để ông thu thập các dữ liệu từ hydrophone?

Régis Bador: Vấn đề ở đây là xây dựng hệ thống phát wi-fi miễn phí. Với khoảng cách hơn 1.7 km và khi cần thiết có thể hơn, công đoạn lặp lại có thể dễ dàng được tích hợp vào hệ thống. Tất cả các dữ liệu từ hydrophone được đưa vào một máy tính và có thể được kiểm tra từ 3 – 5 phút cho mỗi lần nạp trung chuyển. Ví dụ, nếu tôm ngừng ăn tại một trung chuyển, trung chuyển có thể được tắt. Các dữ liệu có thể được xuất ra dạng một tập tin Excel và được phân tích bởi người sử dụng. Người nuôi đã kiểm tra hệ thống AQ1 trong ao tôm với diện tích 7ha ở New Caledonia cắt giảm một tháng trong tổng 7 tháng ở giai đoạn nuôi vỗ từ hệ thống AQ1. Vì vậy năm sau, ông gắn thêm 8 hệ thống với diện tích 8ha, tất cả được hỗ trợ bởi năng lượng mặt trời!

Nhiều trang trại nuôi tôm ở châu Mỹ Latinh không có điện đến tận ao nuôi, máy phát điện bằng năng lượng mặt trời được ứng dụng rất thực tế. Để khởi động thiết bị cho ăn tự động bằng việc phun thức ăn trên một diện tích 300 mét vuông, bạn cần phải chọn loại thức ăn thích hợp. Điều tối ưu là những thử nghiệm và lựa chọn AQ1 chỉ cần hiệu điện thế 220V và công suất 50W là có thể dễ dàng cung cấp điện thông qua thiết bị chuyển đổi từ 12 hoặc 24V; và đó sẽ là không vấn đề từ một hệ thống bảng điều khiển năng lượng mặt trời. Chi phí đầu tư ban đầu là một trong các yếu tố hạn chế cho các hệ thống năng lượng mặt trời.

Shrimp News: Đâu là nơi đặt hydrophone?

Régis Bador: Bên dưới nhưng không trực tiếp dưới việc ăn tự động và khoảng 5-7 mét tính từ trung tâm. Bám vào đáy, thức ăn sẽ nổi lên một điểm giữa trong cột nước. Ao phải sâu ít nhất một nơi hydrophone được đặt.

Shrimp News: Ở New Caledonia hiện có bao nhiêu trang trại nuôi tôm và bao nhiêu người trong số họ đã mua các hệ thống AQ1?

Régis Bador: Có 17 trang trại nuôi tôm ở New Caledonia, trước đây có đến 21 ao. Một trang trại quy mô trung bình từ 8 đến 9ha. Trong năm 2012, một trang trại thiết lập một hệ thống trong một ao và vào năm 2013 trang trại đã mua một hệ thống cho ao khác. Trung tâm Kỹ thuật Aquacole (CTA), một trung tâm nghiên cứu ở New Caledonia sẽ lắp đặt hệ thống trong 4 ao vào năm 3013. Trong năm 2014, có hơn 5 trang trại thiết lập hệ thống, trong đó có một trang trại yêu cầu hệ thống trong năm trên diện tích 11 ha. Tất cả sẽ tiến hành song song, New Caledonia sẽ có 21 ao với các hệ thống AQ1 trước khi kết thúc năm 2014. Trong năm 2015, nông dân ở năm trang trại lên kế hoạch đặt hệ thống cho 10 ao, điều này có nghĩa là 65% các trang trại ở New Caledonia sẽ được sử dụng hệ thống AQ1.

Shrimp News: Hệ thống AQ1 có thể tiếp nhận các âm thanh khi cho hậu ấu trùng mới thả ăn?

Régis Bador: Không, tôm phải đạt trọng lượng từ 2 đến 3 gram thì âm thanh khi sử dụng thức ăn mới được ghi nhận lại.

Shrimp News: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thức ăn viên ngấm nước hoặc dầu? Hệ thống AQ1 sẽ vẫn làm việc?

Régis Bador: Chất lượng vật lý của viên thức ăn không phải là một vấn đề. Hệ thống vẫn hoạt động bởi vì đó là âm thanh từ cơ hàm dưới của tôm dẫn truyền với nhau để kích hoạt các hydrophone, nhưng nếu các viên thức ăn có nhiều nước hoặc dầu ngấm vào, thức ăn vẫn có thể gắn kết với nhau và làm tắc nghẽn các tuyến trung chuyển tự động và sau đó hệ thống không thể tiếp tục hoạt động. AQ1 khuyến cáo rằng: các chất phụ gia được áp dụng tại nhà máy thức ăn chăn nuôi thay vì được tự áp dụng tại các trang trại.

Shrimp News: Còn nơi nào khác trên thế giới đã có lắp đặt hệ thống AQ1?

Régis Bador: Tại Belize, tôi đã cài đặt hệ thống trong hai ao tại AQUA-MAR, người nông dân đã đặt hàng cho hơn 20 ao. Tại Peru, một trang trại phổ biến ở vùng nước ngọt với mô hình nuôi tôm thẻ (Penaeus vannamei), trang trại đã bị sa mạc hóa, nay đã trang bị bốn ao với hệ thống AQ1 và thu hoạch lần đầu tiên. Một trang trại khác ở Peru cũng vừa kết thúc việc lắp đặt, và vừa có một lắp đặt mới ở Guayaquil, Ecuador.  AQ1 đã xác nhận đơn đặt hàng từ các trang trại nuôi tôm ở Venezuela và Nicaragua và từ một trung tâm nghiên cứu ở Colombia. Chúng tôi đã học được rằng một trong những trung chuyển có thể ăn lên đến 7.500 kg sinh khối cuối cùng; do đó, nếu bạn muốn thu hoạch nhiều hơn, bạn sẽ cần ăn bổ sung. Thời gian hoàn vốn từ sau khi lắp đặt hệ thống kéo dài gần một năm bởi vì các hệ thống giảm độ dài của chu kỳ nuôi thương phẩm và giảm tỷ lệ chuyển đổi thức ăn. Điều này làm cho người nuôi có thể bỏ thêm chi phí thấp nhất là 30%. Tại CTA, nơi lưu trữ 25 hậu ấu trùng trên mỗi mét vuông, các nhà nghiên cứu sản xuất tôm đạt 22gram trong 98 ngày với FCR thấp ở mức 1,2!

Shrimp News: Tại sao Thái Lan không thông qua công nghệ mới này phát triển nhanh chóng hệ thống AQ1?

Régis Bador: Hệ thống AQ1 đã được thử nghiệm ở Thái Lan và một bài báo đã được xuất bản ở đó mà so với cho ăn bằng tay, cho ăn tự động bằng AQ1. Kết quả cho thấy: cho ăn bằng tay có tỷ lệ chuyển đổi thức ăn là 1.4; nạp tự động (quản lý trong một giờ) là 1.3; và AQ1 là 1.2. Tăng trưởng cũng tăng nhiều hơn từ AQ1 so với cho ăn bằng tay hoặc cho ăn theo thời gian. Ngay bây giờ, Thái Lan có dấu vết đầy đủ với hội chứng chết sớm (EMS) và họ đang đầu tư ít hơn trong thiết bị mới. AQ1 nghĩ rằng khi Thái Lan giải quyết vấn đề EMS, họ sẽ mua thiết bị AQ1 nhiều hơn nữa.

Shrimp News: Ông có nhà phân phối độc quyền hệ thống AQ1 trên toàn thế giới?

Régis Bador: Không. Tại Peru, Ecuador và Colombia, công ty Innov’Aquaculture của tôi, được lựa chọn để đại diện cho APRACOM AQ1. Ở Panama, Costa Rica, Honduras, El Salvador và Guatemala, tôi kiểm soát việc bán hàng. Mexico và Brazil được quản lý trực tiếp bởi AQ1 (thông tin liên lạc bên dưới).

Régis Bador, Innov’Aquaculture, BP 15.349, 98.804 Noumea, New Caledonia

Điện thoại di động + 687-73-48-97.

Skype: regisbador

Email: regis.bador@innovaquaculture.com.

Website: http://www.innovaquaculture.com. Có tất cả 18 sản phẩm của Bador được trưng bày và thảo luận trên website bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha.

Ross Dodd, Giám đốc điều hành, hệ thống AQ1, 1/110 phố Murray, Hobart, Tasmania 7000, Úc.

Điện thoại + 61-0-3-6234-6677, Di động + 61-0-419-386-526, fax + 61-3-6234-6622.

Email: ross@aq1systems.com.

Website: http://www.aq1systems.com.

Kiến Duy

Nguồn: Régis Bador. Phỏng vấn bởi Bob Rosenberry, Shrimp News, Tegucigalpa, Honduras 26/8/2014.

Bài viết liên quan:

  • EMS – Hội chứng tôm chết sớm đang làm thay đổi cách nuôi trồngEMS – Hội chứng tôm chết sớm đang làm thay đổi cách nuôi trồng
  • Lịch sử nuôi tôm và các yếu tố dẫn dắt tăng trưởng ngành tôm của Thái LanLịch sử nuôi tôm và các yếu tố dẫn dắt tăng trưởng ngành tôm của Thái Lan
  • Rabobank – Ngành nuôi tôm phục hồi sau EMSRabobank – Ngành nuôi tôm phục hồi sau EMS
  • Tóm tắt lịch sử nuôi tôm ở Việt Nam – Phần 1Tóm tắt lịch sử nuôi tôm ở Việt Nam – Phần 1
  • Khuyến cáo kỹ thuật đầu vụ nuôi tôm thâm canh – bán thâm canhKhuyến cáo kỹ thuật đầu vụ nuôi tôm thâm canh – bán thâm canh
  • Một số bệnh tôm thường gặp và cách phòng trịMột số bệnh tôm thường gặp và cách phòng trị
  • Thực hành cho tôm ănThực hành cho tôm ăn