Kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản

(Thủy sản Việt Nam) – Người ta sử dụng kháng sinh tràn lan và bừa bãi từ nhiều thập kỷ nay, không chỉ trong ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) mà cả việc khám chữa bệnh cho con người, hoặc chăn nuôi gia súc, gia cầm. Điều này đã dẫn tới hiện tượng kháng thuốc […]

(Thủy sản Việt Nam) – Người ta sử dụng kháng sinh tràn lan và bừa bãi từ nhiều thập kỷ nay, không chỉ trong ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) mà cả việc khám chữa bệnh cho con người, hoặc chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Điều này đã dẫn tới hiện tượng kháng thuốc của nhiều vi sinh vật gây bệnh. Một khi những vi sinh vật này phát triển, gen kháng bệnh có thể được vận chuyển giữa các tổ hợp vi khuẩn, đặc biệt trong môi trường nước. Thật không may nhiều vi khuẩn xuất hiện và phát triển cơ chế kháng bệnh với tốc độ nhanh hơn việc chúng ta tạo ra các hợp chất chống lại chúng.

Cách đây nhiều năm, hai nhà nghiên cứu tại Đại học Arizona (Mỹ) là Hansa Done và Rolf Halden đã xây dựng công trình nghiên cứu tổng thể về việc sử dụng kháng sinh trong NTTS trên toàn cầu. Họ đã tìm thấy 47 loại kháng sinh khác nhau trong nhiều mẫu thủy sản nuôi từ cá tra, basa tới cá hồi. Mặc dù hàm lượng kháng sinh dưới ngưỡng cho phép của FDA, nhưng kết quả này đã được công bố trên tờ báo “những nguyên liệu nguy hiểm” và được coi là tiếng chuông cảnh báo đầu tiên về vấn đề thủy sản nuôi có nguy cơ đe dọa sức khỏe đại dương và con người.

Tại châu Á, quản lý và kiểm soát lỏng lẻo đã khiến cho việc sử dụng kháng sinh trở thành vấn nạn đáng báo động. Nhiều lô hàng tôm, thủy sản từ châu Á bị thị trường nhập khẩu như EU, Mỹ trả về vì nhiễm kháng sinh cấm đã và đang diễn ra suốt thời gian qua nhưng tới nay vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Người nông dân nhận thức kém hoặc kiến thức khoa học kỹ thuật quá hạn chế đã tự ý dùng thuốc kháng sinh tràn lan; còn nhà sản xuất thu mua nguyên liệu không kiểm soát kỹ chất lượng. Do đó, làm thế nào để những kiến thức về sử dụng kháng sinh, hay những cảnh báo về sự nguy hiểm của kháng sinh được truyền đạt tận tay nông dân giúp nâng cao nhận thức cho họ vẫn đang là trở ngại lớn với nhiều nước NTTS tại châu Á. Tại Mỹ, đào tạo và hướng dẫn người chăn nuôi được coi là vấn đề cốt lõi. Chính phủ Mỹ đã thiết lập nhiều lực lượng chuyên biệt tại từng bang để giải quyết vấn đề xung quanh việc phát triển gen kháng thuốc, vốn được cho là nguyên nhân khiến 23.000 người Mỹ tử vong mỗi năm. Ngày 2/5/2016, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã tuyên bố khoản quỹ 6 triệu USD dành cho hoạt động nghiên cứu cách thức giải quyết vấn đề kháng thuốc (AMR) ở một số khu vực sản xuất lương thực trọng điểm của quốc gia, trong đó có NTTS. Thông qua kế hoạch hành động với vấn đề kháng vi khuẩn, USDA đã mang lại cho người chăn nuôi những kiến thức chuẩn về việc kháng thuốc phát triển như thế nào, phương thức thay thế kháng sinh và hướng dẫn người chăn nuôi giảm nhu cầu sử dụng kháng sinh, mục đích cuối cùng là bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng trên toàn cầu. Nếu chính phủ mỗi quốc gia không quản lý mạnh tay và quan tâm sâu sát hơn tới người chăn nuôi, thì vấn nạn sử dụng kháng sinh sẽ không bao giờ được kiểm soát tốt.

Giáo sư Ngành Khoa học thủy sản, Đại học Louisiana, Mỹ

C. Greg Lutz

—————————————————————————————————————————–

Các ứng dụng phải giải quyết một hoặc các vấn đề sau:

• Phát triển các phương pháp tiếp cận hệ thống mới để điều tra nghiên cứu hệ sinh thái của vi khuẩn kháng khuẩn và những nơi chứa gen trong môi trường ở động vật, cây trồng, trong các sản phẩm thực phẩm, hoặc trong các sản phẩm thủy sản từ nuôi trồng.

Phát triển, đánh giá và sử dụng các nguồn tài nguyên và chiến lược hiệu quả và bền vững, bao gồm những lựa chọn thực hành, kỹ thuật, công nghệ hoặc công cụ nhằm giảm thiểu sự xuất hiện, lây lan hoặc sự tồn tại của các mầm bệnh kháng kháng sinh trong hệ sinh thái nông nghiệp, động vật, cây trồng và trong thực phẩm.

• Xác định các điểm kiểm soát tới hạn để giảm thiểu sự đề kháng kháng sinh trong môi trường sản xuất thực phẩm trước và sau thu hoạch.

• Thiết kế các nguồn lực đào tạo, giáo dục đổi mới và tiếp cận cộng đồng (bao gồm cả nguồn lực dựa trên mạng lưới) có thể thích ứng được với người sử dụng qua chuỗi thực phẩm, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, các nhà sản xuất, nhà chế biến, nhà bán lẻ và người tiêu dùng.

• Thiết kế và thực hiện các nghiên cứu đánh giá tác động và hiệu quả nghiên cứu, giáo dục và những can thiệp mở rộng/tiếp cận được đề xuất về kháng kháng sinh trong toàn bộ chuỗi thực phẩm, từ sản xuất sơ cấp đến người tiêu dùng chính.

Bài viết liên quan:

  • Các dạng chế phẩm sinh học thay thế chất kháng sinh trong nuôi trồng thủy sảnCác dạng chế phẩm sinh học thay thế chất kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản
  • Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản – Phần 1Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản – Phần 1
  • Men tiêu hóa Marine LABSMen tiêu hóa Marine LABS
  • Phát triển văcxin vi khuẩn sống bằng cách chọn lọc đề kháng với các chất kháng khuẩnPhát triển văcxin vi khuẩn sống bằng cách chọn lọc đề kháng với các chất kháng khuẩn
  • Bacillus polyfermenticus KJS-2 sản sinh Macrolactin A có tác dụng như một loại kháng sinhBacillus polyfermenticus KJS-2 sản sinh Macrolactin A có tác dụng như một loại kháng sinh
  • Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản – Phần 2Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản – Phần 2
  • Vi khuẩn tồn tại như thế nào với kháng sinh và các chất kháng khuẩnVi khuẩn tồn tại như thế nào với kháng sinh và các chất kháng khuẩn