Khảo sát của GAA nhằm đưa thêm các giải pháp Tóm tắt: Trong khi hội chứng tôm chết sớm (EMS) tiếp tục tác động đến người nuôi tôm thì việc nâng cao kiến thức giúp tăng cường kiểm soát bệnh. Phạm vi tác động của EMS ở Trung Quốc thay đổi ở các vùng khác […]
Khảo sát của GAA nhằm đưa thêm các giải pháp
Tóm tắt: Trong khi hội chứng tôm chết sớm (EMS) tiếp tục tác động đến người nuôi tôm thì việc nâng cao kiến thức giúp tăng cường kiểm soát bệnh. Phạm vi tác động của EMS ở Trung Quốc thay đổi ở các vùng khác nhau. Ở Việt Nam và Thái Lan có ít trang trại thả nuôi, tình hình sản xuất ở Malaysia vẫn thấp. Các trang trại mới ở Mexico đã thoát được EMS, trong khi Ấn Độ không bị EMS tấn công. Kháng sinh không có hiệu quả đối với EMS. Để chống lại EMS, các chuyên gia khuyến nghị nên tạo một quần thể vi khuẩn cân bằng, thả tôm giống khỏe mạnh và quản lý chặt chẽ chất lượng nước và đáy ao nuôi.
Chủ tịch Liên minh Nuôi trồng Thủy sản Toàn cầu George Chamberlain vừa thông báo rằng hội chứng tôm chết sớm (EMS) tiếp tục gây thiệt hại cho ngành nuôi tôm toàn cầu, việc nâng cao kiến thức dần dần hướng tới các quy trình thực hành cải tiến và kiểm soát bệnh này tốt hơn.
Để loại bỏ EMS và các mầm bệnh khác trong nước, các chuyên gia cho ý kiến là nên tạo một quần thể vi khuẩn cân bằng, thả tôm giống khỏe mạnh, quản lý chặt chẽ chất lượng nước và đáy ao nuôi.
Trong phần thuyết trình ngày 20/5 với các thành viên của Hội đồng Viện Thủy sản Quốc gia, Ông Chamberlain đã cập nhật tình hình EMS của các khu vực sản xuất chính và đưa thêm các khuyến nghị về các phương pháp quản lý để giảm tác động của EMS.
Tình hình EMS
Ông Chamberlain cho biết phạm vi tác động của EMS ở Trung Quốc thay đổi giữa các vùng. Vào đầu năm 2014, EMS xuất hiện với tỉ lệ thấp ở phía đông và phía tây nam Quảng Đông và các tỉnh Quảng Tây, ở mức từ trung bình đến mức cao ở khu vực sông Châu Giang và Trạm Giang. Các trang trại ở miền bắc Trung Quốc đã không thả nuôi.
Một số trang trại đã thiết kế ao sâu tự làm sạch đáy cũng áp dụng thay nước nhiều để loại bỏ bùn. Sự hiện diện của nodavirus và ký sinh trùng microsporidia ngầm gây chết, các tác nhân gây bệnh khác tác động đến cơ quan gan tụy của tôm, làm chậm tăng trưởng và sự khác nhau về kích thước đã xác định rõ bệnh EMS gây thách thức nhiều hơn.
Dù có tác động của EMS nhưng giá tôm cao gần đây tiếp tục kích thích trang trại mở rộng nhanh chóng ở Việt Nam, Ông Chamberlain cho biết, bây giờ giá đã giảm đến US $ 5.00/kg, ít trang trại thả hơn và việc bán tôm giống đang giảm.
Thái Lan một lần nữa bị EMS tấn công. Ước tính quý 1 sản lượng chỉ có 30.000 tấn so với 100.000 tấn năm ngoái. Hết ba tháng nhiệt độ thấp và phải đối mặt với tỷ lệ thất bại liên tiếp hơn 30% trong 40 ngày nuôi đầu tiên, nhiều trang trại không nghĩ sẽ thả lại trong một thời gian.
Ở Malaysia, tổng thể sản xuất vẫn giảm, mặc dù những nỗ lực phối hợp tại trang trại quy mô lớn của Agrobest đang đem lại các kết quả tăng trưởng.
Ông Chamberlain cho biết bệnh EMS ở Mexico bùng phát đầu tiên tại Nayarit ở trung tâm của Sinaloa và một vài trang trại ở Sonora. Các trang trại mới bắt đầu ở miền nam và Vịnh Mexico dường như cho đến nay đã thoát khỏi bệnh EMS. Kế hoạch sản xuất tôm nguyên con của quốc gia này là 55.000 đến 60.000 tấn.
Ấn Độ đối mặt với dự đoán không chắc chắn liên quan đến EMS. Kết quả thử nghiệm đã không nhất quán và không đi đến kết luận, vì vậy các nhà sản xuất của nước này được xem là không bị tác động của EMS tại thời điểm hiện tại.
Quan sát của các chuyên gia
Ông Chamberlain chia sẻ một số quan sát và khuyến nghị do các thành viên của một ủy ban chuyên gia thực hiện về bệnh EMS được thành lập bởi GAA. Ví dụ, những thành viên nghiên cứu về EMS đã xác định độc tính khác nhau ở nhiều chủng vi khuẩn Vibrio gây bệnh. Mặc dù các phương pháp thử nghiệm đang cải tiến, các thiệt hại của bệnh EMS tiếp tục bị nhầm lẫn với tỷ lệ chết do các bệnh virus như hội chứng đốm trắng (WSSV) và hội chứng Taura (TSV).
EMS được cho là lan truyền theo chiều dọc (bên ngoài trứng) từ tôm bố mẹ đến hậu ấu trùng và cũng có thể chuyển sang tôm qua nước, ăn thịt đồng loại, phân, sinh vật phù du, sinh vật lớn, chim và các màng sinh học. Sau khi bệnh EMS hình thành trong môi trường thì sẽ khó kiểm soát. Quan trọng hơn, ở Trung Quốc người ta nhận thấy rằng kháng sinh không có hiệu quả kháng lại EMS. Các thí nghiệm độ nhạy cảm cho thấy vi khuẩn gây bùng phát EMS đã phát triển đề kháng với toàn bộ các loại thuốc kháng sinh. Nghiên cứu ở Mexico cho thấy chủng vi khuẩn Vibrio gây bệnh có các mẫu đề kháng gần giống như chủng không gây bệnh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu Mexico đồng ý rằng thuốc kháng sinh không có hiệu quả, bởi vì chúng không tác động vào tới tác nhân gây bệnh đang chiếm cứ trên bề mặt kitin.
Khuyến nghị
• Cần chọn tôm bố mẹ không nhiễm EMS. Chọn lọc giống kháng EMS thường liên quan đến cảm nhiễm các gia hệ và chọn các gia hệ có tỉ lệ sống tốt nhất để làm tôm bố mẹ cho thế hệ sau.
• Cải tiến quy trình thực hành trang trại. Để loại bỏ EMS và các mầm bệnh khác trong nước, tạo một quần thể vi khuẩn cân bằng, thả tôm giống khỏe mạnh và quản lý chặt chẽ chất lượng nước và đáy ao nuôi. Tẩy trùng bằng clo hoặc ozone để loại bỏ đa tác nhân gây bệnh. Để tạo một cộng đồng vi khuẩn hoàn thiện, sử dụng chế phẩm sinh học (probiotic) và nuôi ghép có thể giúp ổn định nước. Các đề nghị khác là nhằm duy trì mức biofloc từ ít đến trung bình, tránh cho ăn quá mức và loại bỏ bùn thường xuyên.
• Áp dụng giai đoạn ương dưỡng. Ương dưỡng tôm giống nhỏ đến kích cỡ lớn hơn và khỏe hơn, trong lúc này cũng là để xác định tôm không nhiễm EMS. Ương dưỡng tôm giống 10 – 20 ngày ở raceway, bể hoặc lưới quây để có các đánh giá về thể chất và sức khỏe quan trọng.
• Cải thiện hạ tầng trang trại với các ao nuôi thâm canh an toàn sinh học. Các ao nhỏ và sâu được lót bạt hoặc rào lưới chắn chim để dễ tẩy trùng và cho ăn hơn, cũng như kiểm soát chất lượng nước, biofloc và bùn tốt hơn. Sản lượng cao hơn (30-50 tấn/ha) có thể đủ trả cho khoản đầu tư thêm này.
• Xác định các loại thức ăn bổ sung để giảm tỷ lệ mắc EMS. Các chất này bao gồm các chất ức chế quá trình quorum-sensing, tinh dầu hoặc kích thích miễn dịch.
• Cần hệ thống quản lý trang trại tích hợp. Hệ thống phân đoạn không thực hiện được kiểm soát cần thiết ở mỗi bước trong quá trình sản xuất. Quản lý khu vực thường tránh vị trí trang trại có đầu vào chung với kênh xả, cân nhắc khả năng tải của hệ sinh thái. Tiếp cận các phòng thí nghiệm địa phương được trang bị tốt thường phát hiện bệnh EMS tốt hơn.
Các ao sâu lót bạt nhựa hoặc có lưới chắn chim để nâng cao an toàn sinh học và kiểm soát biofloc và bùn tốt hơn.
Khảo sát EMS toàn cầu
Xây dựng trên các nghiên cứu trước đó phối hợp bởi Liên minh Nuôi trồng Thủy sản Toàn cầu đã giúp xác định nguyên nhân của EMS và các yếu tố khác của bệnh, GAA đang đưa ra một cuộc khảo sát trực tuyến mới để thu thập thêm thông tin về trạng thái EMS của các trang trại trong khu vực bị ảnh hưởng, cũng như các quy trình thực hành được áp dụng để chống lại bệnh này.
Cuộc khảo sát toàn diện – được tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới dự án Allfish, Quỹ Nghiên cứu Công nghiệp Thủy sản của Viện Thủy sản Quốc gia và CP Prima – Indonesia – bằng tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác trên website www.gaalliance.org của GAA. Các phiên bản bằng các ngôn ngữ khác có thể được thêm vào giúp cho người nuôi ở các nước châu Á và Mỹ Latinh tham gia nhiều hơn.
Căn cứ vào các phản hồi của cuộc điều tra này, một số trang trại sẽ được lựa chọn để có được sự kiểm tra tại chỗ chuyên sâu và xét nghiệm chẩn đoán để làm rõ các quy trình thực hành nào có hiệu quả nhất trong việc quản lý EMS. Kết hợp với kết quả khảo sát, các số liệu này sẽ do GAA sắp xếp để giúp xác định mẫu thức quản lý thích hợp và thúc đẩy tiếp dụng các quy trình thực hành nuôi tôm mở rộng tốt hơn.
BioAqua dịch
Nguồn: Theo Advocate Global Aquaculture – Tháng 7-8/2014